Bối cảnh Đại_Liban

Tên và khái niệm

Bản đồ so sánh biên giới Đại Liban và biên giới của cựu lãnh thổ Moutassarifat Đỉnh Liban (đường đứt đoạn màu đen), cùng với sự phân bố các nhóm tôn giáo ngày nay.

Khái niệm Đại Liban chỉ đến vùng lãnh thổ rộng gấp đôi Moutassarifat Đỉnh Liban, khu vực cựu tự trị, kết quả của việc hợp nhất các quận TripoliSidon thuộc Đế quốc Ottoman và thung lũng Bekaa. Cựu Moutassarifat này được các lực lượng Tây phương thành lập vào năm 1861 nhằm bảo vệ cộng đồng Kitô hữu ở địa phương theo các điều khoản của Quy chế Hữu quan. Đại Liban, "Le Grand Liban" trong tiếng Pháp, được các trí thức người Liban Bulus Nujaym và Albert Naccache sử dụng lần đầu, trong suốt thời kỳ xây dựng Hội nghị hòa bình Paris năm 1919.[2]

Nujaym biên soạn công trình được đông đảo công chúng biết đến Câu hỏi Liban (tiếng Pháp: La question du Liban) vào năm 1908, một bản phân tích dài 550 trang, mà sau này đã trở thành nền tảng cho các tranh luận ủng hộ chính thể Đại Liban.[3] Câu hỏi Liban tranh thủ biện luận rằng việc mở rộng đáng kể biên giới Liban là việc bắt buộc để xây dựng một nền kinh tế hùng mạnh.[3] Biên giới Nujaym gợi ý mô tả "Liban thời hoàng kim" (tiếng Pháp: "Liban de la grande époque") được vẽ từ bản đồ cuộc viễn chinh của người Pháp trong những năm 1860 - 1864, which has been cited as an example of a modern map having "predicted the nation instead of just recording it".[4]

Hội nghị Hòa bình Paris

Vào ngày 27 tháng 10 năm 1919, phái đoàn Li-băng do Thượng phụ Maronite Elias Peter Hoayek dẫn đầu đã trình bày nguyện vọng của Li-băng trong một giác thư gửi Hội nghị Hòa bình Paris. Giác thư này bao gồm việc mở rộng đáng kể đường biên giới vốn có của tỉnh phụ Li-băng (Mutasarrifat), với lý lẽ là những khu vực bổ sung này cấu tạo nên một vùng đất tự nhiên thuộc Li-băng.[5] Mặc dù trên thực tế, tại một quốc gia mở rộng như vậy, cộng đồng Kitô hữu sẽ không còn chiếm được đa số rõ rệt như trước nữa. Tham vọng sáp nhập những vùng đất nông nghiệp ở Bekaa và Akkar đã được thúc đẩy bởi những lo ngại hiện hữu sau cái chết của gần một nửa dân số tỉnh phụ Núi Liban (Cebel-i Lübnan Mutasarrıflığı) trong Nạn đói lớn; Giáo hội Maronite và các nhà lãnh đạo thế tục đã tìm kiếm một nhà nước có thể cung cấp tốt hơn cho người dân của mình.[6] Những khu vực được sáp nhập vào Mutasarrifat bao gồm các thị trấn ven biển như Beirut, Tripoli, Sidon, Tyre cũng như các vùng lân cận, tất cả đều thuộc về tỉnh Beirut (Beirut Vilayet), cùng với bốn kaza (tiểu quận) của tỉnh Syria Vilayet (Baalbek, Bekaa, RashayaHasbaya).[5]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đại_Liban http://lcweb2.loc.gov/cgi-bin/query/r?frd/cstdy:@f... http://lcweb2.loc.gov/frd/cs/lebanon/lb_glos.html http://almashriq.hiof.no/lebanon/900/902/Kamal-Sal... http://www.cggl.org/scripts/document.asp?id=46227 http://countrystudies.us/lebanon/20.htm https://books.google.com/books?id=4vOJ15vTZV4C&pg=... https://books.google.com/books?id=E1aIAAAACAAJ https://books.google.com/books?id=WvINAQAAMAAJ https://books.google.com/books?id=jY4ImTGnamUC https://books.google.com/books?id=ykTYAQAAQBAJ&pg=...